tao muốn làm người lương thiện
Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc " Tao muốn làm người lương thiện ", câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của
Để làm yên lòng quân, ông ra lệnh chém đầu Vương Cầu rồi loan tin rằng sở dĩ thiếu lương vì viên quan trông coi lương thực ăn cắp kho chứa quân lương. Cách giải quyết của Tào Tháo đã làm tình hình tạm yên nhưng giết một viên quan vô tội khiến người đời sau nguyền
1. Nhân viên phục vụ làm công việc gì? Nhân viên phục vụ là một trong số những việc làm được rất nhiều người lựa chọn lúc bấy giờ. Vai trò của một nhân viên cấp dưới phục vụ nhà hàng quán ăn là rất quan trọng.
04 Tháng 2 2018. "Tôi là một người thiện lương, chưa bao giờ làm hại một ai, vậy vì sao lại mắc bệnh ung thư?". "Tôi là một người thiện lương, chưa bao giờ làm hại một ai, vậy vì sao lại mắc bệnh ung thư?". Đây là một câu hỏi và cũng là vấn đề được quan tâm
Nếu làm nhiều việc thiện, giúp đỡ người khó khăn sẽ gặp nhiều may mắn, được trời phú cho sức khỏe thể chất tốt, cả đời không lo bệnh tật. Ngược lại, nếu sống không ngay thẳng, nói lời dối trá, làm hại người khác về già sẽ phải gánh chịu cuộc sống cô độc, đau khổ. 2. Tử vi đường tình duyên Xem đường tình duyên của tuổi Canh Tuất 1970
Polnische Frauen Suchen Mann In Deutschland. YÊU CẦU Dựa vào hai câu nói cuôì cùng của nhân vật mà tiến hành phân tích rõ và đầy đủ chủ đề của tác phẩm Xã hội thực dân phong kiến đã đẩy một con người vốn hiền lành lương thiện vào con đường tha hóa khiến họ rơi vào cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, không có lối thoát khai thác hai ý cơ bản trong hai câu nói "Tao muốn làm người lương thiện" nhưng "không ai cho tao lương thiện, tao không thể là người lương thiện nữa", và chỉ còn một cách là tự kết liễu đời mình bằng một cái chết bất đắc kì tử. Chủ đề mang giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả. BÀI LÀM Đọc Chí Phèo của Nam Cao đọng lại trong tôi là cái kết của câu truyện, một kết cục bi thảm và tất yếu dành cho nhân vật chính, Nhưng đó cũng là một cái kết đầy tính nhân đạo cao cả "Tao muốn làm người lương thiện. -… – Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!…" Tôi nhớ đến một câu nói của Gorki "Con người, tất cả ở trong con người". Cái lớn nhất mà Nam Cao đã làm được với thiên chức một nhà văn là đã phát hiện ra phẩm chất người trong hình hài của một con quỷ làng Vũ Đại. Những lời nói cuối cùng của Chí Phèo đã làm sáng lên, bừng lên ước muốn được làm người, khát vọng được hoàn lương của hắn. Từ cái chết ấy nhà văn muôn gửi đến bạn đọc bức thông điệp màu xanh về tác phẩm của mình rằng con người, đặc biệt là người nông dân trong xã hội cũ, dù bị chà đạp, bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi thì ẩn sâu trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những tia sáng của bản tính lương thiện, bản chất người. -"Tao muốn làm người lương thiện". Đó là câu nói thành thực nhất, tiếng đầu tiên và cũng là lời cuối cùng trong cuộc đời đã bị tha hóa một cách khủng khiếp của Chí Phèo. Khi hắn say nhất cũng là lúc hắn tỉnh nhất, là lúc còn kịp nhận ra nghĩa lí của cuộc sống chính là ở hai chữ "lương thiện" kia, để rồi điều đó bỗng trở thành khát vọng của hắn sau bao ngày vật vã với rượu và những lời chửi bới "tao muốn", lần đầu tiên cái mong muốn của Chí Phèo không phải là dăm đồng bạc lẻ của cụ Bá, không phải dăm cút rượu hay một ít đồ nhắm, những nhu cầu vật chất mà là một mong muốn có tính trừu tượng, sự lương thiện. Nhận ra điều ấy, Chí Phèo càng ý thức được "Tao không thể là người lương thiện nữa". Dường như đây không còn là lời mà Chí nói với Bá Kiến nữa, đó là lời hắn nói với chính mình. Trước đó hắn không hề biết đến cái gọi là lương thiện, cũng không biết mình đã mất đi những cái cơ bản nhất trong một con người. Giờ đây khi nhận ra thì cũng là lúc hắn mất tất cả. Và cái chết là lối thoát Chí chọn cho mình, để chứng thực cho sự nguyên vẹn của cái gọi là lương thiện. Có lẽ khi hắn nhận ra mình không thể lương thiện được công là lúc hắn hiểu sự lương thiện không thể dung nạp những kẻ như hắn. Những câu nói của Chí Phèo khép lại cuộc đời đen tối của hắn nhưng dội lại những năm tháng hắn đã sống, gợi lại những kí ức đau thương và cả nỗi ngọt ngào mà mới hồm qua, hôm kia thôi hắn còn được hưởng nhưng hôm nay đã tuột khỏi tầm tay. Đó vừa là lời tố cáo xã hội lại vừa như một tiếng nói khẳng định lại bản chất của Chí Phèo trong ý thức rất rõ rệt của hắn. Câu chuyện với bao nhiêu chi tiết, tình huống như gói gọn, đọng lại ở mấy câu nói ấy. Người ta đọc được ở đó những ý định tâm huyết của Nam Cao khi viết Chí Phèo. Dọc theo hành trình cuộc đời Chí Phèo, ta sẽ thấy những lời nói cuối cùng hắn như một sự tổng kết về số phận của mình, một lời trăng trối mang tính triết lí và nhân bản rất cao. Chí cùng từng là một người lương thiện khi hắn còn là một nông dân hiền lành đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng hắn đã thực sự tha hóa, mất cả nhân hình lẫn nhân tính từ khi đi tù về. Tình yêu với thị Nở chính là một sự thôi thúc, cảm hóa chất lưu manh trong con người hắn. Nhưng tiếc rằng hắn đã lấn sâu trong tội lỗi, cho nên dù có ham muốn được trở lại làm người bình thường thì cũng không được nữa. Ai đó sẽ cho hắn lương thiện? Chí Phèo là một thằng lưu manh cùng hơn cả dân cùng. Có lẽ hắn cũng ý thức được điều ấy trước khi kết liễu đời mình. Thực tế khắc nghiệt đến mức một thằng liều quá nửa đời người như hắn vẫn phải nhận ra. Nam Cao đã đặt Chí Phèo trong một không gian thu nhỏ – làng Vũ Đại – nhưng có sức bao quát lớn xã hội đương thời. Hãy cứ coi Vũ Đại chỉ là một làng xã nhưng chớ coi thường phạm vi của nó. ở đó hội tụ những thủ tục, nề nếp, trật tự và những mối quan hệ. Trên cùng của hệ thông làng xã là cụ Bá Kiến ăn ngôi trên chỉ từng được mệnh danh là "lí trưởng, chánh tổng, bá hộ, chánh hội đồng, kì hào, huyện hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Sau cụ Bá là hàng loạt phe cánh cường hào như một bầy cá tranh mồi dồn lại để bóc lột nhân dân nhưng vẫn ngấm ngầm chia rẽ, mưu hại nhau. Trong cái vòng vây ấy, những người dân chứ chưa nói đến Chí Phèo đã khổ cực lắm rồi. Hạng nông dân như Chí là hạng không được chút quyền hạn nào trong làng, không cha mẹ, người thân thích, không mảnh đất cắm dùi, không đồng bạc trong tay thì thử hỏi đâu là quyền sống? Cái cùng cực của Chí Phèo là cùng cực của một kẻ chỉ có thể chấp nhận chứ không có quyền thắc mắc, phản đối, chống lại. Nam Cao đặt biệt chú ý đến cụ tiên chỉ của làng Vũ Đại, điều hành mọi quyền bính trong làng. Dưới ngòi bút của nhà văn, hình ảnh cụ bá hiện lên với những dáng nét sắc thái rất đậm, vừa mang đầy quyền lực mà vẫn không để lộ cái bạo tàn, hách dịch. Cụ bá không có cái thô lỗ, ngu dốt của những tên trọc phú khác ấy là bóc lột người một cách cổ tiền, thô sơ. Cụ có mưu mẹo của cụ, nó hình thành trong lời ăn, tiếng nói rất đỗi khôn ngoan của cụ, những thủ đoạn mà cụ bày ra thường chỉ làm cho con mồi mắc bẫy chứ không bao giờ cụ bể mặt "cụ vẫn tự hào vì cái cười hơn người của mình". Trong cái cười của Bá Kiến ẩn chứa bao nhiêu là xảo quyệt, gian manh, bao nhiêu mưu kế chưa được thực hiện. Hắn đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành thành một tên tù khổ sai với bộ dạng không còn là người nữa. Hắn đã giam hãm Chí Phèo trong nhà tù của luật pháp, hắn lại còn giam hãm Chí lần thứ hai, lâu dài hơn, trong nhà tù không vách, không xà lim, song sắt, ấy là làng Vũ Đại và sự ghê lạnh của mọi người. Ớ đó Chí Phèo là một tay sai đắc lực cho hắn. Trước Chí Phèo, Bá Kiến đã từng biết cách cai trị "những thằng liều" như Năm Thọ, Binh Thức, hắn có thừa kinh nghiệm để hiểu rằng. "Hãy ngâm ngầm đẩy người ta xuống sống nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào vì "thương anh túng quá"!” Những đồng bạc của hắn, những cái cười nhạt mà khanh khách, cái liếc mắt, lời quát mắng dọa nạt cùng những câu dịu giọng chính là cái bẫy để che mắt Chí Phèo, hòng lợi dụng "máu cùn" trong những thằng liều lĩnh "lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình". Sự hiện diện của Bá Kiến càng đậm nét thì cái hệ thông thông trị làng xã Việt Nam càng lộ rõ bàn chất xấu xa, bỉ ổi của nó. Đó là cái chôn mà Chí Phèo không bao giờ có thể tìm thấy cái gọi là luơng thiện. Không ai cho Chí Phèo luơng thiện bởi vì hắn bị những lừa lọc, gian xảo bao vây xung quanh; những trò chém giết rạch mặt ăn vạ, xin đểu, ăn cướp giữa ban ngày vốn không phải là điều lạ lẫm đô! với Chí Phèo. Nhưng có một điều mà Chí Phèo chỉ có thể cảm nhận, chứ không nắm bắt được hình hài một cách cụ thể, đó là sự cô đơn, lạc lõng giữa mọi người. Đã trắng tay, không nơi nương tựa, Chí lại không có lấy một ai để ý. Những người bình thường đều xa lánh hắn. Sự lương thin xa lánh hắn. Không ai nghe hắn chửi, hắn không có ai để mà chửi. Đô! tượng chửi của hắn là tất cả mọi người, thiên nhiên, trời đất, là vô tận mà không là ai cả, là cái gì cụ thể cả. Thậm chí khi "hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại" thì "cả làng ai cũng nghĩ chắc nó trừ mình ra". Càng vì thế tiếng chửi càng trở thành ngôn ngữ riêng để Chí Phèo tự trấn an mình. Nó như một phản ứng quen thuộc giúp Chí quên đi sự xa lánh của mọi người. Hắn chửi để còn cảm giác sẽ có ai đó nghe được lời của mình. Dường như chưa đủ Chí tìm đến rượu. Đô! với hắn ngày tháng, tuổi tác đều không có nghĩa lí gì, cả cuộc đời hắn là một cơn say bất tận, "mênh mông", "hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say". Sau những câu văn Nam Cao, ta cảm thây rất rõ bước đi thất thểu, xiêu vẹo, cái giọng lè nhè, cùng cục của một con ma men. Ớ đâu Chí Phèo xuất hiộn là ở đó có tiếng chửi và cơn say rượu. Nếu vũ khí của Bá Kiến là nụ cười Tào Tháo thì vũ khí của Chí Phèo là hai thứ ấy. Hắn say để quên đi sự tồn tại của mình, quên đi quá khứ hiện tại, những vết rạch mặt, những vũng máu, những giọt nước mắt khổ sở của bao người dân vì hắn. Và một điều Chí rất rõ, ấy là khi tỉnh táo "hắn cảm thấy mình trơ trọi". Mâu thuẫn trong con người Chí Phèo chính là mâu thuẫn giữa nỗi sợ sệt cái mình có với sự liều lĩnh. Cho nên càng sợ hắn lại càng muốn quên, muốn sống. Chính bản thân Chí Phèo đã không nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống, hắn không tự mình tìm đến, tạo cơ hội cho lòng tốt phát sinh thì làm sao có được sự lương thiện? Cuộc sống chỉ thực sự mỉm cười với Chí khi đời hắn có thị Nở. Sự xuất hiện của thị cùng với tình yêu đã hoàn sinh cho hắn. Hình ảnh của thị Nở như một điểm sáng trong câu truyện một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, triền miên say của Chí Phèo. Mọi mâu thuẫn, xung đột, sự thay đổi lớn của truyện đều xuất phát từ thị Nở. Có thể nói là phương tiện để Nam Cao đưa Chí Phèo trở về khát vọng hoàn lương. Không cần biết đến một thị Nở dở hơi, một người đàn bà xấu như ma chê, quỷ hờn. Có cái mặt là "một sự mỉa mai của hóa công", "bề ngang hơn bề dài", Chí Phèo đã yêu và tình yêu ấy giúp hắn nhận thức rõ hơn về sự tồn tại của mình. Lần đầu tiên trong hắn nảy sinh những cảm xúc, tình cảm của một người bình thường, không say rượu, không chửi bới, hắn "bâng khuâng", "mơ hồ buồn", "nao nao buồn". Thử tưởng tượng xem một con ma rượu mà cho đến lúc này cũng "sợ rượu như những người ôm thường sợ cơm". Tinh yêu khơi dậy trong hắn ý thức về’ bản thân, dù chỉ là "mơ hồ" nhưng hắn củng hiểu đó là cái buồn của một con người. Hắn cảm thấy xung quanh đang thay đổi, xôn xao, rạo rực. Một tiếng chim vui vẻ, những tiếng người cười nói, tiếng mõ… đối với hắn như là điều lạ lẫm, hấp dẫn. "Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có". "Chí Phèo chưa bao giờ nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hắn hết say". Và lúc này khi có đến 5 ngày không say rượu, hắn lắng nghe thế giới bằng tất cả lòng mình, cảm nhận và tận hưởng như một đứa trẻ mới chập chững biết đi. Thế giới trong mắt hắn là hàng chuỗi những điều kì diệu, mới lạ. Cái ngạc nhiên của Chí lên đến cao độ khi hắn nhận được sự chăm sóc từ Thị Nở bát cháo hành. Hắn ngạc nhiên và "thấy mắt mình ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là giật cướp". Bát cháo gợi mở trong hắn những tia sáng về sự tốt đẹp, quan tâm, săn sóc của con người trong cuộc sống. Kẻ cùng đinh, liều lĩnh ấy nhận ra một chân lí giản đơn"Những người suôt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon". Cái nhận thức có vẻ ngây ngô và hiển nhiên ấy là đúc rút đầu tiên của Chí Phòo trong quãng đời bị tha hóa. Phải chăng đó chính là tiền đề cho sự trỗi dậy mạnh mẽ khát vọng làm người trong Chí. Càng tiếp xúc với thế giới một cách tỉnh táo, Chí Phèo càng khám phá ra những điều mới mẻ, tô’t đẹp, trong hắn càng đậm thêm cái khái niệm về cuộc sống. Chí nhớ lại quãng đời cũ và so sánh giữa ngày đó với bây giờ. "Hắn muôn làm nũng với thị Nở như với mẹ". Rồi "hắn thấy thèm lương thiện". Cao hơn, Chí muôn làm một người để yêu "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". Tâm thế của Chí Phèo được nâng dần lên. Cái buồn hòa quyện để nâng niềm vui của Chí lên mỗi lúc một cao hơn. Nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả những biến thái, dù là rất nhỏ trong tâm trạng nhân vật. Chỉ một phát hiện của Chí Phèo về bát cháo hành cũng đủ để ta nhận ra ham muôn sống của hắn rồi; nó xóa đi những năm tháng khổ đau cũ trong cuộc đời của hắn, lấp đi cái lưu manh, liều lĩnh hàng ngày và mở ra một hi vọng về một thế giới đổi thay tốt đẹp, thế giới của lương thiện. Và cánh cửa lương thiện dường như đã mỉm cười với hắn. Không ai cho Chí Phèo lương thiện, điều đó không có nghĩa là hắn đã mất đi bản chất lương thiện. Ước mong về một cuộc sống bình dị ngày nào đã trở lại với hắn. Thị Nở đã khơi dậy ước mong ấy giữa một đông hỗn tạp, gai góc và phủ lên tâm hồn Chí một cái nhìn đầy lạc quan. Nhưng sự xuất hiện của thị Nở như một tia sáng lóe lên rồi lại vụt tắt trong cuộc đời Chí Phèo. Người đàn bà ấy giông như một cách thức để Nam Cao soi rọi ánh sáng lương thiện vào tâm hồn Chí, tái hiện lại những phẩm chất người trong hắn để càng nhấn mạnh hơn bi kịch của hắn. Bởi lẽ Chí "không thể làm người lương thiện được nữa rồi". Thị Nở, chỗ dựa cuối cùng của hắn, đã từ bỏ hắn. Hắn thấy mình lâm vào bi kịch của những ngày tháng cũ, những cơn say liên miên, những khung cảnh cướp giật, rạch mặt ăn vạ, những lời chửi bới và nỗi cô đơn đến khủng khiếp. Thị Nở đã không thể cứu vớt hắn, mọi nẻo đường đến với lương thiện đều đóng kín. Thà rằng hắn cứ là một thằng cùng đinh liều lĩnh, tay sai của Bá Kiến, không biết gì về cuộc sống bên ngoài. Thà rằng hắn cứ yên phận mà ngông nghênh giữa làng còn hơn biết đến một tình yêu, một lôi sống mới mà không được tận hưởng. Cho nên Chí Phèo "càng uống lại càng tỉnh ra". Cái tỉnh của hắn là cái tỉnh của một người muôn sống mà bất lực với cuộc sống đó. Nỗi bất hạnh của hắn giờ đây còn nặng hơn gấp trăm lần bất hạnh trước đó hắn từng trải qua. Ai sẽ là người cứu vớt hắn khỏi vực sâu của tội lỗi, làm sao hắn có thể xóa được những vết đâm chém trên mặt hắn? Hắn nhận ra một điều hiển nhiên là mọi người không chấp nhận sự tồn tại của hắn nên sẽ không dung nạp lòng tốt của hắn. Cả làng Vũ Đại chỉ biết đến hắn trong vai trò một con quỷ dừ, liệu có ai tin khi hắn muôn trở thành một người bình thường? Xã hội kia, làng Vu Đại này có dễ dàng dung nạp cho hắn? Trước đây muôn sống được thì phải liều, bây giờ hiền lành chắc chắn không phải là một lôi sống có thể giúp hắn tồn tại. Đó là một quy luật tất yếu. Đây mới chính là hiện thân đầy đủ, cao cả nhất, sâu sắc nhất con người đích thực vẫn tiềm ẩn bấy lâu trong dân trí. Con người ấy biết suy nghĩ, lựa chọn, đặt ra những tình huống có thể xảy đến với mình khi mọi lối thoát đều đã hết. Trở lại với những câu nói ở cuôì truyện của Chí Phèo, ta thấy đó là biểu hiện cao độ của khát vọng được làm người. "Tao muôn làm người lương thiện" là sự trỗi dậy mạnh mẽ, đánh dấu bước nhận thức mới trong con người Chí. Nếu trước đó hắn chỉ lơ mơ hiểu về cái tốt đẹp khi tỉnh rượu, rồi hiểu thế nào là nghĩa lí cuộc sống khi ăn bát cháo hành của thị Nở thì đây là lúc hắn lên tiếng đòi cái quyền được sống cho mình. Chính vì càng ý thức được khát vọng sống cho nên Chí Phèo cũng hiểu ra "Tao không thể làm người lương thiện nữa rồi". Xã hội ấy không có chỗ đứng cho một kẻ muốn hoàn lương như hắn. Hắn đã ở trong vòng vây của lỗi lầm quá lớn, hắn đã bị xô đẩy vào chốn tôi tăm mà ở đó ngay cả sự lương thiện cũng không thể cứu vớt được hắn. Những câu nói tất yếu của Chí Phèo không chỉ là lời khuyến cáo dành cho cụ Bá Kiến, ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, mà là lời tô" cáo chung dành cho cái xã hội tàn ác, chà đạp quyền sống của con người. Tiếng nói lương thiện không chỉ là khát vọng riêng của cá nhân Chí Phèo, nó còn là tiếng nói cao cả nhất của những người nông dân từng bị áp bức, tước đoạt mọi quyền làm chủ bản thân. Phải chăng đó cũng là tiếng nói vừa phát hiện lại vừa nâng đỡ chất người trong Chí, trong những kẻ tha hóa muôn hoàn lương. Trong lời nói của Chí Phèo ánh lên chất nhân bản của tác phẩm. Dường như kết cục của cuộc đời Chí chính là một lối thoát mà Nam Cao đã dành cho nhân vật này, để ông nâng vai trò con người trong Chí lên một mức độ cao hơn, con người đích thực. Mọi dụng ý nghệ thuật hầu như đều dồn lại ở cái kết cục đó. Chí Phèo chết bởi vì hắn muốn có được sự lương thiện nhưng xã hội, mọi người không cho hắn cơ hội đó. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rất rõ về mình, về sự ghê lạnh của mọi người đối với hắn, về mơ ước tới một cuộc sống đích thực. Cái chết là sự hối cải cuối cùng mà Chí còn có thể làm được trong cuộc đời đầy rẫy tội lỗi của hắn. Chi tiết này vừa bộc lộ được giá trị hiện thực lại vừa đậm tính nhân bản. Người ta nói trong mỗi truyện ngắn nhà văn đều chọn cho mình một mục tiêu để vươn tới những yếu tố cần thiết để phục cho mục tiêu đó. Sẽ có những đoạn, những chỗ mà ý định, tâm huyết của người cần bút hiện lên rất rõ rệt, có khi thành định nghĩa, quan niệm. Không nêu lên một khái niệm cụ thể về chất nhân bản trong con người, nhưng cái kết của Chí Phèo là một lời khẳng định về khát vọng sống của con người. Mọi chuẩn bị trước đó dường như chỉ để đợi cái giây phút Chí Phèo bật lên tiếng nói căm phẫn, đòi hỏi sự lương thiện. Chủ đề của truyện đến đây được nâng lên thành ý nghĩa nhân đạo cao cả. Chí Phèo đã nói hộ Nam Cao những điều mà nhà văn muốn nói, muốn đem đến cho con người.
Hướng dẫn Chí muốn làm người lương thiện, nhưng tại sao lại đi giết người? “Tao muốn làm người lương thiện!” nhưng “Ai cho tao lương thiện bây giờ?”… Những khẩn cầu da diết của một anh Chí chuyên đi rạch mặt ăn vạ, sống say xỉn suốt ngày cuối cùng cũng làm lòng người vương chút xót thương. Chỉ tiếc rằng, đến lúc nhận ra đâu là cái thiện, cái ác lại chính là lúc Chí kết liễu cuộc đời mình. Kết cục bi thảm của câu chuyện, khiến người đọc tự đặt ra câu hỏi đầy day dứt Chí muốn làm người lương thiện, nhưng tại sao lại đi giết người? Phải chăng nhà văn Nam Cao đã cố tình để “đứa con đẻ” của mình vào hoàn cảnh éo le, để rồi ông phải đau đớn cởi nút thắt ấy bằng chính máu và nước mắt của những người nông dân cùng khổ giống như Chí? Chí là một đứa trẻ mồ côi, không cha không mẹ. Chí chưa một lần được biết đến hơi mẹ. Cả làng Vũ Đại thay nhau nuôi nấng Chí. Cho đến khi làm được việc, Chí đi ở cho nhà Bá Kiến để lấy chỗ nương thân sinh sống qua ngày. Ngỡ rằng, cuộc đời làm nô bộc cứ thế qua đi, nhưng sự đời éo le cùng những tai họa đã ập đến với Chí. Chí bị bà ba – vợ ba của Bá Kiến dụ dỗ, hãm hại đẩy vào tù. Oan ức, cay nghiệt và lòng thù hận đã theo Chí trong suốt những năm tháng dài đày ải trong tù. Khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt bụng trở thành một con quỷ dữ khi quay lại làng. Giờ đây, trước mắt mọi người là một con quái vật suốt ngày say xỉn, chuyên đi rạch mặt ăn vạ với những trận chửi om sòm, nghiệt ngã. Mãi cho tới khi gặp Thị Nở, dù chỉ là một cuộc tình chóng vánh mỏng manh với người đàn bà dở hơi, xấu xí nhưng chính từ những điều tưởng chừng như buồn cười ấy lại làm nên bước ngoặt lớn cho cuộc đời Chí. Lần đầu tiên Chí tỉnh rượu, lần đầu tiên hắn thấy yêu cuộc sống, yêu những điều giản dị nhất, hắn ý thức về tuổi tác, về sự đời, về những gì sắp diễn ra trước mắt mình. Cái bản chất lương thiện trong Chí đã được đánh thức sau bao ngày bị vùi dập trong men say. Nhưng bất hạnh chưa hết, Thị bỏ rơi Chí giữa lúc tình yêu đang say đắm, nồng nàn. Trong cơn tuyệt vọng, Chí càng thức tỉnh hơn, càng hiểu hơn vì sao mình ra nông nỗi này. Và Chí đã đi đến một quyết định rất táo bạo giết chết Bá Kiến rồi tự tử để làm người lương thiện. Tình cảnh oái oăm, bi thương này khiến người đọc không khỏi xót thương và đưa ra câu hỏi Chí muốn làm người lương thiện nhưng tại sao lại đi giết người? Giết người là tội ác, là hành động của kẻ ác nhân chứ đâu phải của người lương thiện? Lương thiện là cứu người, là yêu thương, là nâng đỡ nhau. Hay tại Chí không hiểu lương thiện là gì? Không phải, Chí là người đã từng trải qua rất nhiều nỗi đau, nỗi đau thiếu vắng mẹ cha, nỗi đau bị oan ức, rồi lại đến nỗi tuyệt vọng khi bị “người yêu” cự tuyệt tình yêu, rõ ràng Chí hiểu hơn ai hết lương thiện là gì. Hơn nữa, vốn dĩ trước đây Chí cũng từng là một con người lương thiện. Nhưng do hoàn cảnh, do cái ác xung quanh Chí quá nhiều, lòng lương thiện của Chí không thể nào chống lại được những kẻ tà ác kia. Giữa một Bá Kiến và bọn cường hào tham lam, giữa những bà vợ dâm ô và độc ác, một mình Chí làm sao chống đỡ được khi bọn họ đã muốn hãm hại Chí. Thực ra, Chí hiểu rất rõ bản chất của Bá Kiến và bè lũ tay sai của hắn là tàn bạo, là bất nhân. Nếu bọn chúng còn sống ngày nào thì Chí không thể được làm người lương thiện ngày ấy. Bởi thủ đoạn của chúng quá thâm độc, Chí không chống cự lại được. Chí muốn làm người tốt, muốn có một cuộc sống thật bình yên với vợ với con. Nhưng tiếc rằng ước mơ ấy chỉ vừa mới kịp nảy lên trong đầu đã vội vàng bị dập tắt. Lý do ư? Là do Thị Nở dở hơi? Hay do người bà cô đanh đá của Thị lúc nào cũng kìm kẹp cháu mình nên Thị sợ không dám yêu nữa? Tất cả đều đúng, nhưng đằng sau những lý do ấy còn có một lý do khác mang yếu tố quyết định. Đó chính là vì những tàn ác, những định kiến của xã hội, của chế độ phong kiến bất nhân. Mà trong chế độ ấy, Bá Kiến chính là một trong những kẻ cầm đầu. Bởi thế, Chí đã xác định rất rõ kẻ thù của mình, chính là Bá Kiến chứ không phải người đàn bà đã cự tuyệt, đã hất tay Chí một cách phũ phàng. Chí giết Bá Kiến để làm người lương thiện là hoàn toàn đúng. Mặc dù đó là hành động giết người, nhưng trong cái xã hội ấy, hành động này lại là hành động đáng được nhân dân hưởng ứng. Bởi giết Bá Kiến là giết bọn tàn ác, bất nhân. Bọn chúng không chỉ đàn áp mình Chí mà còn đàn áp tất cả những ai thấp cổ bé họng như Chí. Biết bao nhiêu người nông dân cũng đang phải khổ sở chịu đựng cảnh sống lầm than, oan ức như Chí mà không thể nào lên tiếng được. Bọn chúng còn sống ngày nào, nhân dân còn khổ sở ngày đó. Có lẽ, trong những giây phút tủi hờn, Chí nghĩ rằng mình chẳng còn gì phải đáng tiếc cho cuộc đời này, mẹ không, cha cũng không, rồi đến ngay cả một mảnh tình vắt vai tưởng chừng như hạnh phúc cũng vừa bị vụt tắt ngay trong chốc lát, vậy thì Chí còn sống trên cõi đời này làm gì? Rồi khi Chí già nua, ai sẽ bên cạnh, lúc ốm đau mệt mỏi, chắc chỉ có mình Chí nằm co ro hưu quạnh trong túp lều rách nát. Chí nghĩ về sự cô đơn, nó còn đáng sợ hơn cả bệnh tật. Bởi thế, cái chết lúc này vừa giải thoát Chí khỏi cuộc đời đầy ngang trái, vừa là động lực để Chí cầm giao giết chết kẻ cầm quyền ác độc kia. Chí giết chết Bá Kiến rồi tự tử – hành động giết người nhưng lại được mang tên là lương thiện. Tại sao ư? Bá Kiến chết, nhân dân sẽ bớt khổ dù sau hắn vẫn còn những bè lũ tay say. Nhưng ít nhất cái chết của hắn cũng là một mũi dao chĩa thẳng vào đồng bọn của hắn và cảnh cáo rằng con giun xéo lắm cũng quằn, nhất định sẽ có ngày họ đứng lên để giành lại quyền sống, quyền tự do cho chính mình. Chí chết, nhưng vẫn còn bao nhiêu người dân nữa, họ sẽ cùng nhau đoàn kết hợp sức lại lật đổ chế độ phong kiến bạo tàn thâm độc. Chí giết Bá Kiến không chỉ vì mối thù riêng của bản thân mà vì Chí không muốn ai bị lâm vào hoàn cảnh giống mình nữa. Hơn nữa, Chí hiểu rằng nếu hắn còn sống, thì Chí vẫn sẽ là một kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, chuyên rạch mặt ăn vạ. Chí không muốn tiếp tục những chuỗi ngày cay đắng, bê tha ấy nữa. Chí muốn kết thúc cuộc đời hắn, và cũng kết thúc cả cuộc đời mình để mọi người không còn phải nghe những tiếng chửi đổng om sòm nữa. Bởi thế, hành động Chí giết Bá Kiến là hoàn toàn đúng, và lúc này tâm trí của Chí cũng hoàn toàn tỉnh táo. Chí không say. Chí làm rất đúng. Nhà văn Nam Cao đã rất thành công khi dẫn dắt và sắp đặt cho các nhân vật của mình vào những tình huống éo le nhưng lại rất hợp tình hợp lý. Chí giết Bá Kiến cũng chính là ý niệm của ông khi ông chứng kiến cảnh dân mình phải chịu áp bức bóc lột nặng nề đến mức đánh mất cả nhân tính tốt đẹp vốn có của bản thân. Dù ông đau xót khi phải để Chí chết nhưng đó lại là một cách rất xứng đáng để Chí không làm nên những cái nhìn ghê tởm cho mọi người nữa. Mặt khác, giết Bá Kiến là để cứu giúp nhân dân, để đánh thức lòng can đảm của dân chúng, thúc giục họ hãy đứng lên tự giải phóng lấy chính mình. Như vậy, hành động Chí giết Bá Kiến là hoàn toàn đúng, đặc biết rất đúng với tâm niệm được làm người lương thiện của Chí. Theo
Phân tích đoạn trích Chí Phèo của Nam Cao Bài làm Tao muốn làm người lương thiện” Không được ! Ai cho tao lương thiện ?…” 1. Mỗi lần nhớ đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, tôi lại nghe văng vẳng bên tai mấy câu nói trên đây và hình dung rõ như in một gương mặt đàn ông vừa đáng thương vừa đáng sợ, vằn vện những vết sẹo dữ dằn. Từ đôi mắt nửa tỉnh táo, nửa đờ đẫn của anh ta ánh lên một cái nhìn thật thiết tha, khắc khoải. Cái nhìn pha lẫn cả hăm doạ với cầu khẩn, pha lẫn hận thù, khổ đau, sám hối và khát vọng,… Cái nhìn dường như không phải hướng đến một điểm, một người, mà hướng đến mọi điểm, mọi người. Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa đó là việc nhà văn đã nói thay cho những người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía – tiếng nói khát khao được sống như một con người. Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí Phèo là cả một kì vọng. Bởi hai tiếng “Con người” đối với người đàn ông thua thiệt, bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong ; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có, sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được. Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu. Phân tích đoạn trích Chí Phèo Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng – …”Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng…” – …”Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” – …”Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh.” – Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có “năm hai mươi tuổi…”, hoặc “hồi ấy…”. Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo! Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình Tao muốn làm người lương thiện”. Nhưng ” – Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách… biết không !… Chỉ còn một cách là… cái này ! Biết không !… Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.” Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,… Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước muốn “làm người” của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện “làm người” thậm chí đã thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nữa ! Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn “trợn ngược”, “mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng”. Cơ duyên tìm cuộc sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng. 2. Nhưng thế nào mới được xem là người ? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy ? Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền, là lương thiện,… ? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thoả đáng cho mình. Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và sau khi đã tỉnh rượu trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về và trước khi tỉnh rượu. Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng hạn “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt” ; “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng bàn tay và sức lao động của mình như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí Kiến. Là người thì phải biết sống tự trọng như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba. Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện với mọi người như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở,… Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm, bất bình, căm uất,… cũng phải như một con người. Nhưng đây mới là điều tối quan trọng ý thức về quyền sống như một con người, sống cho ra một con người. Là người thì có quyền đòi hỏi cả xã hội phải công nhận mình như một con người. Hiểu như thế, người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa ? Chỉ là những gì tối thiểu và chính đáng nhất. Thế mà “không được !”. Lỗi ấy tại ai và do đâu ? Vì Chí Phèo ? Vì bá Kiến ? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại ? Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này. Bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo. Việc Chí Phèo không được trở lại làm người có thể giải thích bằng nhiều lí do. Có nhiều lí do khách quan lẫn lí do chủ quan. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là hai lí do này Thứ nhất, định kiến xã hội quá nghiệt ngã là thứ rào cản không thể vượt qua ; thứ hai, Chí Phèo đã trượt dốc quá xa, đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn và trong Chí Phèo xuất hiện một thứ rào cản khác rào cản tâm lí. Lí do thứ nhất thuộc về phía khách quan xã hội, đã được bà cô thị Nở nói toạc ra “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mạt ra ăn vạ.” Ở cái làng Vũ Đại này, từ lâu, Chí Phèo đã thành “con vật lạ”. Từ lâu, Chí Phèo đã sống ngoài rìa xã hội một mình ở bên kia bờ đê. Chí Phèo chửi, người ta bỏ ngoài tai thường chỉ có ba con chó dữ đáp lại thằng say rượu. Trong mắt người làng, cũng như bà cô thị Nở, Chí Phèo chỉ có thể sống kiếp thú vật “chỉ có một nghề rạch mặt ra ăn vạ”, không thể sống chung với người, hoặc sống mà cũng như đã chết. Cái định kiến này sâu sắc, nghiệt ngã đến mức, giả dụ thị Nờ có trái lời bà cô, vẫn cứ chấp nhận chung sống với Chí Phèo, thì xã hội làng Vũ Đại vẫn không thể tha thứ và đón nhận anh ta. Lí do thứ hai, thuộc về phía chủ quan Chí Phèo, liên quan đến sự tự ý thức của Chí Phèo. Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi cho dù là phạm trong lúc say. Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh “đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”. Món nợ ấy biết trả đến bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả ngoại hình Chí Phèo “Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?”, ta không nên hiểu đó là miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch dược. Nó sẽ trở thành một thứ mặc cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này “Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !”. Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn. Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,… chính là để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ – thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc càng rõ – tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình. Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ? Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình. Nam Cao đã rất khách quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí Phèo. Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự “Chưa bao giờ hắn tỉnh…”, “Có lẽ hắn cũng không biết rằng…”, “Hắn biết đâu…” “Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả trong lúc say.” Mà “Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng chính lúc Chí Phèo nhận ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ ; rằng con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi, sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì người ta không chỉ thấy giận giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo, thấy thương thương một kẻ có số phận bi đát, mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ” ; “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”, “Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi”. Những cái “giá…”, cái “sẽ…”, cái “hay là…” như vậy – trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật – rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy. Cháo hành “rất ngon” ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị Nở phũ phàng dúi ngã “lăn khoèo xuống sân”, chí Phèo vẫn “thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành”. Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên “làm người lương thiện” của Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi. “Chí Phèo” là tiếng nói của niềm khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn. Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này – Chí Phèo – là một “thằng đầu bò”, một “con vật lạ”, “gã lưu manh” hay “tên quỷ dữ”,… Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo là một người lao động lương thiện, một anh canh điền “hiền như đất”. Nhưng dù là nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó trong chính tâm hồn anh ta. Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính. Sự lựa chọn này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều thuộc về một chủ thể Chí Phèo. Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật, nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con người bên trong của mình. Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu, được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời vân nửa trực tiếp độc đáo và bằng một khung cú pháp đặc thù Hắn + động từ tâm lí Hắn thấy…, hắn nghe…, hắn sợ,…. Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo “Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn…”, “Hắn sợ rượu…”. “Hắn lại nao nao buồn…”, “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.”. “Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.”. “Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon”. Ngược về quá khứ, “nhớ đến bà Ba”, “hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.”. Nhìn vào hiện tại, hắn “trông thị thế mà có duyên”, hắn thấy “như yêu thị”, và khám phá ra rằng “đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say”. Rồi, “hắn thấy lòng thành trẻ con”, “hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ”. Và điều tự phát hiện này mới cực kì quan trọng “Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?”. Hoặc “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.” Cứ thế, mỗi một lần “Hắn thấy…”, “Hắn .vợ…”, “Hắn nhớ…”, “Hắn muốn…” là mỗi lần cõi thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng nsười. 3. Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này những diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu dời mình. Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người biết cười khóc, buồn vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. Chí Phèo muốn xoá bỏ thù oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu hiện đặc biệt của tình bạn, tình người. Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến Thị Nở đâu chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ không phải ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón hương vị thơm thảo của tình người. Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha. Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của nsười trí thức nghèo như Điền, như Hộ, như Thứ,… thực ra, cũng dễ hiểu. Là một giáo khổ trường tư, một văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống. Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay, và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông. Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật dáng phục và dáng trọng. Điều đó càng chứng tỏ rằns Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sâu sắc, và một tấm lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.
Hãy cùng học hỏi từ cách Phật hướng dẫn trở thành người lương thiện để chúng ta bớt cảm thấy khó khăn, nản chí trong quá trình tìm cách tích đức, hành thiện giữa cuộc sống nhiễu nhương này. Trong hầu hết những lời Phật dạy, Người đều định hướng cho chúng ta trở thành người lương thiện trong cuộc sống này. Thế nhưng làm thế nào để trở thành một người lương thiện không hề dễ vì đó thực sự là quá trình tu luyện bản thân trong suốt thời gian dài, kiên nhẫn, nỗ lực tranh đấu với tâm lý của mình, thậm chí kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác. Người đời thường ca ngợi những người khôn lỏi, túc trí đa mưu và chê những người hiền lành là yếu đuối. Thế nhưng đừng nghĩ khờ khạo có nghĩa là ngốc nghếch, bởi có đôi khi, thông minh khôn khéo quá cũng đồng nghĩa với việc gieo rắc tội lỗi mà không hay. Phật giáo cho rằng, lương thiện đỉnh cao của trí tuệ bởi điều đó thể hiện người đó có sự hiểu biết, phân biệt tốt xấu đúng sai và kiềm chế được bản thân, không bị hoàn cảnh xung quanh làm ảnh hưởng. Vì thế Phật hướng dẫn trở thành người lương thiện bằng những việc quán chiếu bản thân như sau, ta có thể học hỏiKhông tự hãm bản thânNhân chi sơ, tính bản thiện - lương thiện chính là bản chất nguyên sơ của sinh mệnh nguyên thủy của con người. Sinh ra ta là một đứa trẻ lương thiện, đó là bản chất của ta, vì thế không cần cố gắng cũng lương thiện, do đó đừng tự hãm mình bằng những tham lam dục vọng, lợi lộc, tiền bạc, danh vọng... Đừng vì thấy người ta khen ngợi mấy kẻ khôn ngoan, gian dối mà cố bắt chước làm theo cho bằng được. Thực tế họ tưởng mình có nhiều nhưng họ đang mất nhiều lắm đấy! Lương thiện là bản tính vốn có trong mỗi con người, giữ gìn hay đánh mất nó là do sự lựa chọn của mỗi người. Hãy nghĩ cách tự biến mình thành người lương thiện, hoặc ít ra là giữ vững sự lương thiện vốn lối sống lương thiện, tức là giải thoát chính ta khỏi những ràng buộc khổ đau, trở về với bản ngã nguyên sơ, tốt đẹp buổi ban đầu. Làm người lương thiện ta có thể sống ung dung, tự tại, không phải lo lắng nhiều khi đã tự mình hóa giải những muộn phiền trong đời. Sống lương thiện là cách sống dễ nhất nhưng cũng là khó nhất, người lương thiện là người thiệt thòi nhất nhưng cũng hưởng nhiều phúc báo nhất. Không dồn ép người khácHiện tượng mà chúng ta thấy rất nhiều hiện nay trên mạng xã hội đó là, hễ cứ có sự việc gì xảy ra, mọi người không cần biết rõ thực hư, chỉ cần đọc vài dòng trên báo mạng là vội vàng đưa ra nhận định ai đúng, ai sai một cách mù quáng. Họ cho rằng mình cần đứng về lẽ phải và dồn ép người "được cho là sai" tới đường cùng, cố tình triệt đường sống của người ta một cách nhẫn tâm. Phật dạy làm người quan trọng nhất là có “tâm”, tâm ấy không chỉ cho mình mà còn cho những người xung quanh. Người đã đi tới đường cùng, không nên dồn ép, hãy luôn chọn cách cho người ta một đường lui vì người đã thấy được cái sai không nên vạch mặt, quyết liệt tới cùng, người đã nhận ra lỗi lầm không nên hạch sách. Đừng để tới khi bản thân rơi vào hoàn cảnh tương tự có muốn thoát ra cũng không được, chỉ mong giữa người với người có được sự cảm thông cần thiết. Thay vào đó, ta cần dùng tình thương, sự cảm thông, suy nghĩ thiện lương của mình để sưởi ấm lòng người mới là đúng câu chuyện về hai vị hòa thượng như sau Có một tiểu hòa thượng và lão hòa thượng sống trong một ngôi chùa cũ nát trên núi. Một hôm, tiểu hòa thượng bộc bạch với lão hòa thượng- Con và thầy đang phải sống trong ngôi chùa rách nát này nên mỗi lần xuống núi, mọi người đều là nói những lời ác ý, thậm chí gọi con là hòa thượng hoang. Họ càng ngày càng không muốn cho chúng ta tiền hương khói nữa, không biết sau này phải sống sao? Hôm nay con đi khất thực giữa trời lạnh như vậy mà họ bố thí chút đỉnh, cũng không ai muốn mở cửa cho con. Thầy nói rằng rồi ta sẽ xây một ngôi chùa ngàn gian, tiếng chuông vang xa không ngớt nhưng con nghĩ chắc việc này khó sư phụ vẫn im lặng lắng nghe nhưng vì tiểu hòa thượng cứ nói không ngừng nên người đàn mở mắt ra hỏi - Bây giờ bên ngoài gió bấc thổi mạnh, lại có băng tuyết ngập trời, con có thấy lạnh không?Tiểu hòa thượng toàn thân run rẩy nói- Con lạnh, hai chân con đều tê cóng cả rồi!Lão hòa thượng nói- Vậy hôm nay chúng ta đi ngủ sớm cho đỡ lạnh. Lão hòa thượng và tiểu hòa thượng tắt đèn, trùm vào trong chăn lúc sau, lão hòa thượng hỏi- Bây giờ con có thấy ấm không?Tiểu hòa thượng đáp lời- Con đã thấy ấm rồi, giống như đang ngủ dưới ánh mặt trời vậy!Lão hòa thượng nói- Khi nãy, chăn bông để ở trên giường là lạnh, thế nhưng khi có người nằm vào lại trở nên ấm áp. Con thử nói xem, là chăn bông sưởi ấm cho người hay là người sưởi ấm cho chăn bông đây? Tiểu hòa thượng nghe xong tưởng sư phụ nói đùa, cậu cười- Sư phụ, người thật là hồ đồ đó, chăn bông làm sao có thể sưởi ấm cho người được, phải là do con người làm chăn bông ấm lên mới đúng chứ!Lão hòa thượng hỏi tiếp- Chăn bông đã không cho chúng ta sự ấm áp lại còn cần chúng ta đi sưởi ấm nó, như thế thì chúng ta còn đắp chăn bông làm gì?Tiểu hòa thượng nghĩ một lát rồi nói- Mặc dù chăn bông không sưởi ấm cho chúng ta, nhưng chăn bông dày lại có thể giữ hơi ấm cho chúng ta, khiến cho chúng ta ngủ được thoải mái. Trong bóng tối, lão hòa thượng hiểu ý cười cười- Chúng ta là hòa thượng tụng kinh rung chuông, chẳng phải là giống người nằm dưới chăn bông? Còn những chúng sinh kia chẳng phải họ là một cái chăn bông dày đó sao? Chỉ cần chúng ta một lòng hướng thiện, thì chiếc chăn bông lạnh như băng kia cuối cùng cũng sẽ được chúng ta sưởi ấm. Lúc đó “cái chăn bông” dày kia cũng sẽ biết giữ ấm cho chúng ta. Chúng ta ngủ trong “cái chăn bông” như vậy, chẳng phải rất ấm áp sao?Tiểu hòa thượng nghe xong liền bừng tỉnh mà hiểu ra đầu từ ngày hôm sau, tiểu hòa thượng đều dậy rất sớm đi khất thực, cậu vẫn gặp phải những lời ác ý như trước đây. Thế nhưng tiểu hòa thượng vẫn giữ vững thái độ nho nhã, bình năm sau…Chùa đã trở thành một ngôi chùa lớn, có rất nhiều hòa thượng, khách hành hương tới không ngớt. Tiểu hòa thượng cũng đã trở thành vị sư trụ ra, chúng ta cũng là người đang nằm trong chăn bông, người khác chính là chăn bông của chúng ta. Khi chúng ta dùng sự thiện lương của mình sưởi ấm chăn bông thì chăn bông cũng sẽ giữ ấm cho chúng tranh cãi với người khácKhi sống lương thiện, nhiều người sẽ cảm thấy bị thiệt thòi vì bạn dễ bị chèn ép. Nhưng nghĩ mà xem, ta sẽ được gì khi cứ suốt ngày đi so đo, tính toán từng li từng tí một? Nếu ai đó muốn thắng, cứ cho họ thắng và hả hê đi, bạn cũng chẳng mất gì phải không nào, cuộc sống vẫn cứ thế lặng lẽ trôi qua cho dù bạn có là kẻ thua cuộc trong việc tranh cãi với họ. Ta sẽ ra sao khi phải đối diện với những hiểu lầm, những nỗi oan ức trong cuộc sống? Có những lúc, cứ lặng lẽ mỉm cười cho qua, cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Tranh cãi với người không cùng tầng cũng như việc bạn nói tiếng Ý nhưng người ta nói tiếng Anh nên không ai hiểu ai vậy, không ít người cố gắng giải thích, phân bua lại còn bị suy diễn cho sai lệch tình huống theo cách nghĩ tiêu cực của họ, càng khiến sự việc đi quá xa, vậy nên chẳng cần phải tranh giành đúng sai, hãy biết nhẫn nhịn và bỏ qua vì đó là cảnh giới cao nhất của tu cãi làm mất tu dưỡng, làm giảm phước báu vì khi đó ta dễ tạo khẩu nghiệp trong lúc nổi nóng, tức giận, mất đi tính đúng đắn của lời nói. Hãy cứ tin rằng “Thanh giả tự thanh” việc đúng đắn trước sau vẫn là việc đúng đắn, mình chẳng cần chứng minh, rồi thời gian sẽ phơi bày tất cả.
YÊU CẦU Dựa vào hai câu nói cuôì cùng của nhân vật mà tiến hành phân tích rõ và đầy đủ chủ đề của tác phẩm Xã hội thực dân phong kiến đã đẩy một con người vốn hiền lành lương thiện vào con đường tha hóa khiến họ rơi vào cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, không có lối thoát khai thác hai ý cơ bản trong hai câu nói “Tao muốn làm người lương thiện” nhưng “không ai cho tao lương thiện, tao không thể là người lương thiện nữa”, và chỉ còn một cách là tự kết liễu đời mình bằng một cái chết bất đắc kì tử. Chủ đề mang giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả. BÀI LÀM Đọc Chí Phèo của Nam Cao đọng lại trong tôi là cái kết của câu truyện, một kết cục bi thảm và tất yếu dành cho nhân vật chính, Nhưng đó cũng là một cái kết đầy tính nhân đạo cao cả “Tao muốn làm người lương thiện. – … – Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa! Biết không! Chỉ có một cách… biết không… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!…” Tôi nhớ đến một câu nói của Gorki “Con người, tất cả ở trong con người”. Cái lớn nhất mà Nam Cao đã làm được với thiên chức một nhà văn là đã phát hiện ra phẩm chất người trong hình hài của một con quỷ làng Vũ Đại. Những lời nói cuối cùng của Chí Phèo đã làm sáng lên, bừng lên ước muốn được làm người, khát vọng được hoàn lương của hắn. Từ cái chết ấy nhà văn muôn gửi đến bạn đọc bức thông điệp màu xanh về tác phẩm của mình rằng con người, đặc biệt là người nông dân trong xã hội cũ, dù bị chà đạp, bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi thì ẩn sâu trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những tia sáng của bản tính lương thiện, bản chất người. -“Tao muốn làm người lương thiện”. Đó là câu nói thành thực nhất, tiếng đầu tiên và cũng là lời cuối cùng trong cuộc đời đã bị tha hóa một cách khủng khiếp của Chí Phèo. Khi hắn say nhất cũng là lúc hắn tỉnh nhất, là lúc còn kịp nhận ra nghĩa lí của cuộc sống chính là ở hai chữ “lương thiện” kia, để rồi điều đó bỗng trở thành khát vọng của hắn sau bao ngày vật vã với rượu và những lời chửi bới “tao muốn”, lần đầu tiên cái mong muốn của Chí Phèo không phải là dăm đồng bạc lẻ của cụ Bá, không phải dăm cút rượu hay một ít đồ nhắm, những nhu cầu vật chất mà là một mong muốn có tính trừu tượng, sự lương thiện. Nhận ra điều ấy, Chí Phèo càng ý thức được “Tao không thể là người lương thiện nữa”. Dường như đây không còn là lời mà Chí nói với Bá Kiến nữa, đó là lời hắn nói với chính mình. Trước đó hắn không hề biết đến cái gọi là lương thiện, cũng không biết mình đã mất đi những cái cơ bản nhất trong một con người. Giờ đây khi nhận ra thì cũng là lúc hắn mất tất cả. Và cái chết là lối thoát Chí chọn cho mình, để chứng thực cho sự nguyên vẹn của cái gọi là lương thiện. Có lẽ khi hắn nhận ra mình không thể lương thiện được công là lúc hắn hiểu sự lương thiện không thể dung nạp những kẻ như hắn. Những câu nói của Chí Phèo khép lại cuộc đời đen tối của hắn nhưng dội lại những năm tháng hắn đã sống, gợi lại những kí ức đau thương và cả nỗi ngọt ngào mà mới hồm qua, hôm kia thôi hắn còn được hưởng nhưng hôm nay đã tuột khỏi tầm tay. Đó vừa là lời tố cáo xã hội lại vừa như một tiếng nói khẳng định lại bản chất của Chí Phèo trong ý thức rất rõ rệt của hắn. Câu chuyện với bao nhiêu chi tiết, tình huống như gói gọn, đọng lại ở mấy câu nói ấy. Người ta đọc được ở đó những ý định tâm huyết của Nam Cao khi viết Chí Phèo. Dọc theo hành trình cuộc đời Chí Phèo, ta sẽ thấy những lời nói cuối cùng hắn như một sự tổng kết về số phận của mình, một lời trăng trối mang tính triết lí và nhân bản rất cao. Chí cùng từng là một người lương thiện khi hắn còn là một nông dân hiền lành đi ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng hắn đã thực sự tha hóa, mất cả nhân hình lẫn nhân tính từ khi đi tù về. Tình yêu với thị Nở chính là một sự thôi thúc, cảm hóa chất lưu manh trong con người hắn. Nhưng tiếc rằng hắn đã lấn sâu trong tội lỗi, cho nên dù có ham muốn được trở lại làm người bình thường thì cũng không được nữa. Ai đó sẽ cho hắn lương thiện? Chí Phèo là một thằng lưu manh cùng hơn cả dân cùng. Có lẽ hắn cũng ý thức được điều ấy trước khi kết liễu đời mình. Thực tế khắc nghiệt đến mức một thằng liều quá nửa đời người như hắn vẫn phải nhận ra. Nam Cao đã đặt Chí Phèo trong một không gian thu nhỏ – làng Vũ Đại – nhưng có sức bao quát lớn xã hội đương thời. Hãy cứ coi Vũ Đại chỉ là một làng xã nhưng chớ coi thường phạm vi của nó. ở đó hội tụ những thủ tục, nề nếp, trật tự và những mối quan hệ. Trên cùng của hệ thông làng xã là cụ Bá Kiến ăn ngôi trên chỉ từng được mệnh danh là “lí trưởng, chánh tổng, bá hộ, chánh hội đồng, kì hào, huyện hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Sau cụ Bá là hàng loạt phe cánh cường hào như một bầy cá tranh mồi dồn lại để bóc lột nhân dân nhưng vẫn ngấm ngầm chia rẽ, mưu hại nhau. Trong cái vòng vây ấy, những người dân chứ chưa nói đến Chí Phèo đã khổ cực lắm rồi. Hạng nông dân như Chí là hạng không được chút quyền hạn nào trong làng, không cha mẹ, người thân thích, không mảnh đất cắm dùi, không đồng bạc trong tay thì thử hỏi đâu là quyền sống? Cái cùng cực của Chí Phèo là cùng cực của một kẻ chỉ có thể chấp nhận chứ không có quyền thắc mắc, phản đối, chống lại. Nam Cao đặt biệt chú ý đến cụ tiên chỉ của làng Vũ Đại, điều hành mọi quyền bính trong làng. Dưới ngòi bút của nhà văn, hình ảnh cụ bá hiện lên với những dáng nét sắc thái rất đậm, vừa mang đầy quyền lực mà vẫn không để lộ cái bạo tàn, hách dịch. Cụ bá không có cái thô lỗ, ngu dốt của những tên trọc phú khác ấy là bóc lột người một cách cổ tiền, thô sơ. Cụ có mưu mẹo của cụ, nó hình thành trong lời ăn, tiếng nói rất đỗi khôn ngoan của cụ, những thủ đoạn mà cụ bày ra thường chỉ làm cho con mồi mắc bẫy chứ không bao giờ cụ bể mặt “cụ vẫn tự hào vì cái cười hơn người của mình”. Trong cái cười của Bá Kiến ẩn chứa bao nhiêu là xảo quyệt, gian manh, bao nhiêu mưu kế chưa được thực hiện. Hắn đã biến Chí Phèo từ một anh nông dân hiền lành thành một tên tù khổ sai với bộ dạng không còn là người nữa. Hắn đã giam hãm Chí Phèo trong nhà tù của luật pháp, hắn lại còn giam hãm Chí lần thứ hai, lâu dài hơn, trong nhà tù không vách, không xà lim, song sắt, ấy là làng Vũ Đại và sự ghê lạnh của mọi người. Ớ đó Chí Phèo là một tay sai đắc lực cho hắn. Trước Chí Phèo, Bá Kiến đã từng biết cách cai trị “những thằng liều” như Năm Thọ, Binh Thức, hắn có thừa kinh nghiệm để hiểu rằng. “Hãy ngâm ngầm đẩy người ta xuống sống nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào vì “thương anh túng quá”!” Những đồng bạc của hắn, những cái cười nhạt mà khanh khách, cái liếc mắt, lời quát mắng dọa nạt cùng những câu dịu giọng chính là cái bẫy để che mắt Chí Phèo, hòng lợi dụng “máu cùn” trong những thằng liều lĩnh “lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Sự hiện diện của Bá Kiến càng đậm nét thì cái hệ thông thông trị làng xã Việt Nam càng lộ rõ bàn chất xấu xa, bỉ ổi của nó. Đó là cái chôn mà Chí Phèo không bao giờ có thể tìm thấy cái gọi là luơng thiện. Không ai cho Chí Phèo luơng thiện bởi vì hắn bị những lừa lọc, gian xảo bao vây xung quanh; những trò chém giết rạch mặt ăn vạ, xin đểu, ăn cướp giữa ban ngày vốn không phải là điều lạ lẫm đô! với Chí Phèo. Nhưng có một điều mà Chí Phèo chỉ có thể cảm nhận, chứ không nắm bắt được hình hài một cách cụ thể, đó là sự cô đơn, lạc lõng giữa mọi người. Đã trắng tay, không nơi nương tựa, Chí lại không có lấy một ai để ý. Những người bình thường đều xa lánh hắn. Sự lương thin xa lánh hắn. Không ai nghe hắn chửi, hắn không có ai để mà chửi. Đô! tượng chửi của hắn là tất cả mọi người, thiên nhiên, trời đất, là vô tận mà không là ai cả, là cái gì cụ thể cả. Thậm chí khi “hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại” thì “cả làng ai cũng nghĩ chắc nó trừ mình ra”. Càng vì thế tiếng chửi càng trở thành ngôn ngữ riêng để Chí Phèo tự trấn an mình. Nó như một phản ứng quen thuộc giúp Chí quên đi sự xa lánh của mọi người. Hắn chửi để còn cảm giác sẽ có ai đó nghe được lời của mình. Dường như chưa đủ Chí tìm đến rượu. Đô! với hắn ngày tháng, tuổi tác đều không có nghĩa lí gì, cả cuộc đời hắn là một cơn say bất tận, “mênh mông”, “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say”. Sau những câu văn Nam Cao, ta cảm thây rất rõ bước đi thất thểu, xiêu vẹo, cái giọng lè nhè, cùng cục của một con ma men. Ớ đâu Chí Phèo xuất hiộn là ở đó có tiếng chửi và cơn say rượu. Nếu vũ khí của Bá Kiến là nụ cười Tào Tháo thì vũ khí của Chí Phèo là hai thứ ấy. Hắn say để quên đi sự tồn tại của mình, quên đi quá khứ hiện tại, những vết rạch mặt, những vũng máu, những giọt nước mắt khổ sở của bao người dân vì hắn. Và một điều Chí rất rõ, ấy là khi tỉnh táo “hắn cảm thấy mình trơ trọi”. Mâu thuẫn trong con người Chí Phèo chính là mâu thuẫn giữa nỗi sợ sệt cái mình có với sự liều lĩnh. Cho nên càng sợ hắn lại càng muốn quên, muốn sống. Chính bản thân Chí Phèo đã không nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống, hắn không tự mình tìm đến, tạo cơ hội cho lòng tốt phát sinh thì làm sao có được sự lương thiện? Cuộc sống chỉ thực sự mỉm cười với Chí khi đời hắn có thị Nở. Sự xuất hiện của thị cùng với tình yêu đã hoàn sinh cho hắn. Hình ảnh của thị Nở như một điểm sáng trong câu truyện một vị cứu tinh trong cuộc đời u ám, triền miên say của Chí Phèo. Mọi mâu thuẫn, xung đột, sự thay đổi lớn của truyện đều xuất phát từ thị Nở. Có thể nói là phương tiện để Nam Cao đưa Chí Phèo trở về khát vọng hoàn lương. Không cần biết đến một thị Nở dở hơi, một người đàn bà xấu như ma chê, quỷ hờn. Có cái mặt là “một sự mỉa mai của hóa công”, “bề ngang hơn bề dài”, Chí Phèo đã yêu và tình yêu ấy giúp hắn nhận thức rõ hơn về sự tồn tại của mình. Lần đầu tiên trong hắn nảy sinh những cảm xúc, tình cảm của một người bình thường, không say rượu, không chửi bới, hắn “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”, “nao nao buồn”. Thử tưởng tượng xem một con ma rượu mà cho đến lúc này cũng “sợ rượu như những người ôm thường sợ cơm”. Tinh yêu khơi dậy trong hắn ý thức về’ bản thân, dù chỉ là “mơ hồ” nhưng hắn củng hiểu đó là cái buồn của một con người. Hắn cảm thấy xung quanh đang thay đổi, xôn xao, rạo rực. Một tiếng chim vui vẻ, những tiếng người cười nói, tiếng mõ… đối với hắn như là điều lạ lẫm, hấp dẫn. “Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có”. “Chí Phèo chưa bao giờ nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hắn hết say”. Và lúc này khi có đến 5 ngày không say rượu, hắn lắng nghe thế giới bằng tất cả lòng mình, cảm nhận và tận hưởng như một đứa trẻ mới chập chững biết đi. Thế giới trong mắt hắn là hàng chuỗi những điều kì diệu, mới lạ. Cái ngạc nhiên của Chí lên đến cao độ khi hắn nhận được sự chăm sóc từ Thị Nở bát cháo hành. Hắn ngạc nhiên và “thấy mắt mình ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay là giật cướp”. Bát cháo gợi mở trong hắn những tia sáng về sự tốt đẹp, quan tâm, săn sóc của con người trong cuộc sống. Kẻ cùng đinh, liều lĩnh ấy nhận ra một chân lí giản đơn”Những người suôt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo ăn rất ngon”. Cái nhận thức có vẻ ngây ngô và hiển nhiên ấy là đúc rút đầu tiên của Chí Phòo trong quãng đời bị tha hóa. Phải chăng đó chính là tiền đề cho sự trỗi dậy mạnh mẽ khát vọng làm người trong Chí. Càng tiếp xúc với thế giới một cách tỉnh táo, Chí Phèo càng khám phá ra những điều mới mẻ, tô’t đẹp, trong hắn càng đậm thêm cái khái niệm về cuộc sống. Chí nhớ lại quãng đời cũ và so sánh giữa ngày đó với bây giờ. “Hắn muôn làm nũng với thị Nở như với mẹ”. Rồi “hắn thấy thèm lương thiện”. Cao hơn, Chí muôn làm một người để yêu “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Tâm thế của Chí Phèo được nâng dần lên. Cái buồn hòa quyện để nâng niềm vui của Chí lên mỗi lúc một cao hơn. Nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả những biến thái, dù là rất nhỏ trong tâm trạng nhân vật. Chỉ một phát hiện của Chí Phèo về bát cháo hành cũng đủ để ta nhận ra ham muôn sống của hắn rồi; nó xóa đi những năm tháng khổ đau cũ trong cuộc đời của hắn, lấp đi cái lưu manh, liều lĩnh hàng ngày và mở ra một hi vọng về một thế giới đổi thay tốt đẹp, thế giới của lương thiện. Và cánh cửa lương thiện dường như đã mỉm cười với hắn. Không ai cho Chí Phèo lương thiện, điều đó không có nghĩa là hắn đã mất đi bản chất lương thiện. Ước mong về một cuộc sống bình dị ngày nào đã trở lại với hắn. Thị Nở đã khơi dậy ước mong ấy giữa một đông hỗn tạp, gai góc và phủ lên tâm hồn Chí một cái nhìn đầy lạc quan. Nhưng sự xuất hiện của thị Nở như một tia sáng lóe lên rồi lại vụt tắt trong cuộc đời Chí Phèo. Người đàn bà ấy giông như một cách thức để Nam Cao soi rọi ánh sáng lương thiện vào tâm hồn Chí, tái hiện lại những phẩm chất người trong hắn để càng nhấn mạnh hơn bi kịch của hắn. Bởi lẽ Chí “không thể làm người lương thiện được nữa rồi”. Thị Nở, chỗ dựa cuối cùng của hắn, đã từ bỏ hắn. Hắn thấy mình lâm vào bi kịch của những ngày tháng cũ, những cơn say liên miên, những khung cảnh cướp giật, rạch mặt ăn vạ, những lời chửi bới và nỗi cô đơn đến khủng khiếp. Thị Nở đã không thể cứu vớt hắn, mọi nẻo đường đến với lương thiện đều đóng kín. Thà rằng hắn cứ là một thằng cùng đinh liều lĩnh, tay sai của Bá Kiến, không biết gì về cuộc sống bên ngoài. Thà rằng hắn cứ yên phận mà ngông nghênh giữa làng còn hơn biết đến một tình yêu, một lôi sống mới mà không được tận hưởng. Cho nên Chí Phèo “càng uống lại càng tỉnh ra”. Cái tỉnh của hắn là cái tỉnh của một người muôn sống mà bất lực với cuộc sống đó. Nỗi bất hạnh của hắn giờ đây còn nặng hơn gấp trăm lần bất hạnh trước đó hắn từng trải qua. Ai sẽ là người cứu vớt hắn khỏi vực sâu của tội lỗi, làm sao hắn có thể xóa được những vết đâm chém trên mặt hắn? Hắn nhận ra một điều hiển nhiên là mọi người không chấp nhận sự tồn tại của hắn nên sẽ không dung nạp lòng tốt của hắn. Cả làng Vũ Đại chỉ biết đến hắn trong vai trò một con quỷ dừ, liệu có ai tin khi hắn muôn trở thành một người bình thường? Xã hội kia, làng Vu Đại này có dễ dàng dung nạp cho hắn? Trước đây muôn sống được thì phải liều, bây giờ hiền lành chắc chắn không phải là một lôi sống có thể giúp hắn tồn tại. Đó là một quy luật tất yếu. Đây mới chính là hiện thân đầy đủ, cao cả nhất, sâu sắc nhất con người đích thực vẫn tiềm ẩn bấy lâu trong dân trí. Con người ấy biết suy nghĩ, lựa chọn, đặt ra những tình huống có thể xảy đến với mình khi mọi lối thoát đều đã hết. Trở lại với những câu nói ở cuôì truyện của Chí Phèo, ta thấy đó là biểu hiện cao độ của khát vọng được làm người. “Tao muôn làm người lương thiện” là sự trỗi dậy mạnh mẽ, đánh dấu bước nhận thức mới trong con người Chí. Nếu trước đó hắn chỉ lơ mơ hiểu về cái tốt đẹp khi tỉnh rượu, rồi hiểu thế nào là nghĩa lí cuộc sống khi ăn bát cháo hành của thị Nở thì đây là lúc hắn lên tiếng đòi cái quyền được sống cho mình. Chính vì càng ý thức được khát vọng sống cho nên Chí Phèo cũng hiểu ra “Tao không thể làm người lương thiện nữa rồi”. Xã hội ấy không có chỗ đứng cho một kẻ muốn hoàn lương như hắn. Hắn đã ở trong vòng vây của lỗi lầm quá lớn, hắn đã bị xô đẩy vào chốn tôi tăm mà ở đó ngay cả sự lương thiện cũng không thể cứu vớt được hắn. Những câu nói tất yếu của Chí Phèo không chỉ là lời khuyến cáo dành cho cụ Bá Kiến, ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, mà là lời tô” cáo chung dành cho cái xã hội tàn ác, chà đạp quyền sống của con người. Tiếng nói lương thiện không chỉ là khát vọng riêng của cá nhân Chí Phèo, nó còn là tiếng nói cao cả nhất của những người nông dân từng bị áp bức, tước đoạt mọi quyền làm chủ bản thân. Phải chăng đó cũng là tiếng nói vừa phát hiện lại vừa nâng đỡ chất người trong Chí, trong những kẻ tha hóa muôn hoàn lương. Trong lời nói của Chí Phèo ánh lên chất nhân bản của tác phẩm. Dường như kết cục của cuộc đời Chí chính là một lối thoát mà Nam Cao đã dành cho nhân vật này, để ông nâng vai trò con người trong Chí lên một mức độ cao hơn, con người đích thực. Mọi dụng ý nghệ thuật hầu như đều dồn lại ở cái kết cục đó. Chí Phèo chết bởi vì hắn muốn có được sự lương thiện nhưng xã hội, mọi người không cho hắn cơ hội đó. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rất rõ về mình, về sự ghê lạnh của mọi người đối với hắn, về mơ ước tới một cuộc sống đích thực. Cái chết là sự hối cải cuối cùng mà Chí còn có thể làm được trong cuộc đời đầy rẫy tội lỗi của hắn. Chi tiết này vừa bộc lộ được giá trị hiện thực lại vừa đậm tính nhân bản. Người ta nói trong mỗi truyện ngắn nhà văn đều chọn cho mình một mục tiêu để vươn tới những yếu tố cần thiết để phục cho mục tiêu đó. Sẽ có những đoạn, những chỗ mà ý định, tâm huyết của người cần bút hiện lên rất rõ rệt, có khi thành định nghĩa, quan niệm. Không nêu lên một khái niệm cụ thể về chất nhân bản trong con người, nhưng cái kết của Chí Phèo là một lời khẳng định về khát vọng sống của con người. Mọi chuẩn bị trước đó dường như chỉ để đợi cái giây phút Chí Phèo bật lên tiếng nói căm phẫn, đòi hỏi sự lương thiện. Chủ đề của truyện đến đây được nâng lên thành ý nghĩa nhân đạo cao cả. Chí Phèo đã nói hộ Nam Cao những điều mà nhà văn muốn nói, muốn đem đến cho con người. Nguồn tham khảo
tao muốn làm người lương thiện